Tên di sản : Đền thờ Lê Văn An
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 263/QD-UBND
Giới thiệu
Về quy mô cấu trúc: Ngôi đền hiện nay đã được tu sửa khá nhiều lần. Hiện tại, nó được nằm trong phần đất của người trưởng tộc ở thôn Diên Hào. Xung quanh là xóm làng có dân cư đông đúc.
Về mặt bằng không gian kiến trúc: Đền thờ được đặt ở một vị thế cao ráo, thoáng đãng, mặt ngoảnh ra hướng Nam (liền kề sông nông giang), con sông đào tưới tiêu được xây dựng từ thời Pháp thuộc. Phía sau đền là xóm làng được cấu tạo như ô bàn thờ, sau đó là đê sông Chu. Một không gian rộng mà hẹp, bởi các đình, đền, chùa của làng Diên Hào trước đây được bố trí rất gần nhau, một không gian thiêng, tụ linh, tụ phúc, xứng đáng là nơi thờ tự một nhân vật lớn của lịch sử đất nước.
Đến tham quan di tích theo thứ tự từ ngoài vào ta có các công trình sau:
Cổng đền thờ mới được xây dựng trong những năm gần đây bao gồm 3 cửa ra vào, 1 cửa lớn ở giữa và 2 cửa nhỏ hai bên. Kiến trúc thông thường.
Sân đền là phần đất nằm trước gồm 2 khoảng: Khoảng ngoài là vườn cây gồm cây cảnh và một số cây lưu niên, tiếp giáp với khoảng vườn là sân chính có diện tích khoảng 40 m2 được lát gạch sạch sẽ có hai phía tường rào bao bọc. Tất cả tạo nên một khung cảnh hài hoà trước cửa đền thờ: Vườn cảnh - Sân đền - Đền thờ.
Tiền đường là ngôi nhà có 4 gian 3 vì được cấu trúc theo lối thông thường với vì kèo gỗ truyền thống dân tộc bao gồm 2 mái. Mái trước có mái hiên thông suốt cả 4 gian, đây là một ngôi nhà mới được sửa chữa trong mấy chục năm trở lại đây. Vật liệu xây dựng tổng hợp bao gồm gỗ, luồng, vôi vữa. Nền được lát gạch chi màu đỏ, đốc tường xây bằng gạch, mái lợp ngói mũi. Tổng quát phần khung nhà gồm 6 cột cái với 12 xà dọc (6 xà nằm trên nằm dưới đầu cột) và 6 xã nằm trên các đấu trụ. Tất cả các xà này có nhiệm vụ nối các vì kèo của ngôi đền tạo nên khung liên kết vững chắc.
Phía trên cùng là mái, bao gồm các đòn tay hay còn gọi là hoành tải bằng luồng được rải đều từ trên nóc xuống mặt tường đốc trên các đòn tay là những hàng rui bằng luồng được rải đều để lợp ngói. Cấu tạo của vì kèo cũng theo kiểu kèo suốt và đấu trụ.
Sự sắp đặt trong đền thờ tạo nên một nền nếp, gian giữa là nơi để cả lễ, còn hai gian bên là nơi ở của người trưởng tộc, đồng thời là nơi tụ họp của anh em, con cháu trong ngày giỗ tổ.
Bên dưới là nhà ngang, nơi ở của ông chủ trưởng tộc. Trong nhà ngang này vừa là nơi ở, vừa là nơi tiếp khách. Bên cạnh nha ngang là bếp ăn, nơi để dụng cụ đồ dùng nông nghiệp.
Hậu cung: Là nơi thờ tự chính được bố trí thành hai nơi thờ mà ta vẫn quen gọi là cung trong và cung ngoài với chiều dài 5,5m x 3,6m, R = 19,8m2). Cung ngoài thờ hội đồng tổ tiên. Cung trong thờ Thọ Quốc công Lê Văn An.
Cấu tạo hậu cung không có gì đặc biệt. Hệ thống đồ thờ được bố trí trang nghiêm bề thế. Nhìn tổng thể trong một khung cảnh không gian của đền thờ Lê Văn An cũng mang một phong cách truyền thống của người Việt đồng bằng: Đền thờ thường nằm ngay trên phần đất ở của người trưởng tộc.
Tóm lại: Di tích đền thờ Lê Văn An về mặt cấu trúc là một tổng thể hài hoà, trong đó khu thờ tự trang nghi âm bề thế.
Các hiện vật trong di tích:
Đền thờ Lê Văn An do thời gian lâu ngày nên bị xuống cấp nghiêm trọng, tuy vậy con cháu trong dòng họ vẫn bao quản được nhiều hiện vật có giá trị liên quan đến nhân vật lịch sử này.
Bản gia phả (chữ Hán) được biên soạn dưới thời vua Tự Đức (thời Nguyễn).
Long ngai bằng gỗ sơn son thiếp vàng thở thủy tổ Nguyễn Thọ.
Một ngai thờ bằng đá, bên trong có thánh vị cũng bằng đá thờ thành tổ Lê Văn An.
Một bác hương gốm (thời Lê).
Một chúc thư gỗ.
Hai cây kiếm gỗ (Sơn son thiếp vàng).
Hai đại đao.
Hai cây đèn bằng đá.
Hai ống hương bằng đá.
Ba đài thờ bằng đá.
Một đôi nến bằng đá.
Một mâm bồng đá.
Bộ khay đá.
Ba đạo sắc (Một đạo thời vua Lê Cảnh Hưng và hai đạo thời vua Duy Tân).
Hai hộp đựng quần áo lễ.
Ba bát hương đá.
Hai ống hương gỗ.
Một mầm bông gỗ.
Hai bát hương gốm dạng đa lươn.
Ngoài ra, còn có một số đồ thờ khác như câu đối bằng vải nỉ, bát hương mới được bổ sung vào đền thờ.